Trong nhiều thế kỷ tồn tại và phát triển của nền văn minh Chăm Pa, người Chăm đã để lại trên dãy đất miền Trung nhiều công trình kiến trúc, nghệ thuật gồm các thành quách, đền tháp, thánh đường, thánh địa… Với những biến động lịch sử trong nhiều thế kỷ mà đến nay chỉ còn lại là những di tích văn hóa. Quảng Bình là vùng giao thoa của hai nền văn hóa cổ Việt – Chămpa, từ năm 137 đến 1069, Quảng Bình từng là địa bàn cư trú của các dân tộc Chăm và một số dân tộc thiểu số khác. Đặc biệt, sự xuất hiện của văn hóa Chăm để lại dấu vết kiến trúc nền đền trong động Phong Nha và ký tự trên vách hang Bi Ký. Đây là dấu hiệu cho thấy sự thâm nhập sâu của văn hóa Chăm vào khu vực Di sản đã được hai học giả nổi tiếng là Léopold Cadière (nhà truyền đạo người Pháp) và Giáo sư Trần Quốc Vượng khẳng định.
Việc tìm lại bóng dáng của một thời hoàng kim đã mất của nền văn minh Chămpa là một việc làm cần thiết, nhằm khôi phục lại bức tranh rực rỡ một thời huy hoàng của nền văn minh Chămpa. Trên mảnh đất Quảng Bình, vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nhiều nhà thám hiểm nước ngoài đã lần lượt đến khảo sát tại Động Phong Nha, các tài liệu, bài nghiên cứu của những nhà khoa học, thám hiểm chủ yếu tập trung vào miêu tả cảnh đẹp và nhấn mạnh giá trị du lịch của Động Phong Nha; thám hiểm nguồn gốc dòng sông ngầm trong lòng hang động. Tại đây, họ đã tình cờ phát hiện có một bệ thờ xây bằng gạch Chăm được đặt lên đó một pho tượng đá mang phong cách Chămpa, bên trong vách động có các bi ký được viết, khắc bằng chữ Phạn, các nhà khoa học đã tìm thấy 97 bi ký với 162 từ bằng chữ Chàm cổ khắc trên vách đá, gạch, tượng đá, tượng phật, mãnh gốm và nhiều bài vị… Vì có dạng chữ khác thường và việc sao chép thời đó không được cẩn thận, chính xác nên các bi ký Phong Nha vẫn chưa được dịch thuật đầy đủ và giải mã một cách khoa học. Các nhà khoa học chỉ đọc được một số từ và biết được hang động này chứa đựng những yếu tố Phật giáo. Một điều đáng tiếc là tại di tích Phong Nha những hiện vật được tìm thấy trước đây và những bi ký được viết trên vách động đã không được lưu giữ và nghiên cứu đầy đủ nên rất khó để xác định được niên đại của những tượng thờ cũng như các bi ký Phật giáo trước kia đã từng có trong động. Tháng 12 năm 1899, sau đợt thám hiểm Phong Nha, Cadiere viết thư cho Trường Viễn đông bác cổ khẳng định; “Những gì còn lại đó đều rất qúy giá đối với sử học. Giữ nó là giúp ích không ít cho khoa học”. Ngoài ra Ông còn có nhiều bài khảo cứu có giá trị về văn hóa và phong tục tập quán của nhân dân vùng thung lũng nguồn Son.
Sau đó, cũng trong khoảng đầu thế kỷ XX, nhiều nhà nghiên cứu, khảo sát Việt Nam cũng đã thám hiểm và giới thiệu Phong Nha, nhưng tất cả các tài liệu của họ đều nghiêng về miêu tả cảnh đẹp thần tiên huyền ảo của hang động, như ông Thái Bá Kiệm, Lê Bá Thảo, Hoàng Thiếu Sơn, Trần Kinh, Nguyễn Kinh Chi… Đặc biệt, trong đợt khảo sát vào tháng 7 năm 1995 Giáo sư Trần Quốc Vượng, trường Đại học Quốc gia Hà Nội và chuyên viên Viện khảo cổ học Hà Nội nhận định động Phong Nha có dấu hiệu là một di tích khảo cổ học vô cùng quan trọng. Có thể dấu tích ở hang Bi Ký trong động Phong Nha là một thánh đường Chăm từ thế kỷ IX đến đầu thế kỷ XI. Ở đây, đoàn khảo sát đã gặp nhiều mảnh thân và miệng các bình gốm của Chàm với các mảnh gốm thô sơ có lõi đen, có vòng phân miệng loe rộng so với thân, tạo một góc gần vuông. Bên cạnh đó còn có những mảnh gốm có tráng men hoa văn miệng hình cánh sen, cánh xanh ngọc, có mảnh có men lông thỏ màu hồng nhạt (Poilde livre). Xuất hiện các viên gạch Chàm đã bị vỡ và mềm ra như đất “Chúng tôi đục một lỗ ở nền trên cùng và thấy bên dưới lớp Cobannát canxi dày từ 10 – 20 cm là dấu vết của một nền móng gạch Chàm…”
Theo đoàn, trên nền hang có nhiều các phiến đá, không phải đá vôi, nó được cắt, mài (dấu vết rõ) bị lớp Cabonnát canxi bao phủ gần hết, có thể đây là các phiến đá thuộc kiến trúc trong hang này đã bị sụp đổ. Nói chung, các dấu vết trong hang này chứng tỏ trước đây đã có một kiến trúc gạch đá khá công phu ở đây. Qua cuộc khảo sát, đoàn khảo sát có một số nhận định sơ bộ như sau: Các mảnh gốm thô không men điển hình của gốm Chăm Pa, cùng với các mảnh gốm có men, hoa văn hình cánh sen trong hang bước đầu đặt niên đại (gốm có men và hoa văn) thế kỷ X – XI. Đây là thời kỳ cuối cùng của người Chăm Pa ở vùng này; Các viên gạch Chăm và dấu vết các nền móng cùng các vật liệu kiến trúc, cho thấy ở đây trước kia đã có một kiến trúc gạch kết hợp với đá của người Chàm và đây có thể là một thánh đường của vùng Bắc Chăm Pa; Tất cả các di vật phế tích Chàm này phải có niên đại muộn nhất là thế kỷ XI.
Dấu vết kiến trúc nền đền trong động Phong Nha và ký tự trên vách hang Bi Ký là dấu hiệu cho thấy sự thâm nhập sâu của văn hóa Chăm vào khu vực Di sản đã được hai học giả nổi tiếng là L. Cadiere và Trần Quốc Vượng khẳng định. Nếu di tích và di vật có dấu ấn Chăm trong động Phong Nha được khẳng định như các nhà khoa học đã phát hiện và dấu tích ít ỏi của những mẫu ký tự bí ẩn thực sự liên quan đến một giai đoạn lịch sử còn rất mơ hồ của vùng đất này, thì quả thực đây là một di tích rất đáng được trân trọng.
Tháng 3 năm 2008, một đoàn nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam và Nhật Bản đã phát hiện những dấu tích văn tự trong động Phong Nha là theo dạng chữ sanskrit phối hợp với dạng chữ Champa cổ. Trong bài nghiên cứu về Phật giáo Champa và vị trí của vùng đất Quảng Bình dưới triều đại Indrapura (thế kỷ 9-10), nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông (Nguyên phân viện trưởng Phân viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia VN tại Huế) cho rằng những phát hiện mới của nhóm nghiên cứu Việt – Nhật đã hé lộ nhiều thông tin đáng quan tâm nhằm làm rõ thêm di tích Phật giáo Chăm trong thạch động thuộc di sản thiên nhiên thế giới. Qua khảo sát và nghiên cứu bước đầu, giáo sư Arlo Griffiths của Trường Viễn Đông Bác Cổ cho biết hiện vẫn chưa thể dịch nghĩa được những dòng chữ này có nội dung gì, chỉ khẳng định được chữ viết ở văn bia này là chữ viết của người Chămpa. Ông nhận định văn bản này được viết vào những năm đầu thế kỷ 11 (cách đây khoảng 1.000 năm). Đây là lần đầu tiên văn bia trong động Phong Nha được xác định niên đại cụ thể, so với những nhận định trước đó đều có khoảng cách từ thế kỷ IX-X hoặc từ thế kỷ X-XI. Sau khi đã khảo sát kỹ, các nhà ngôn ngữ học của Trường Viễn Đông Bác Cổ đã chụp ảnh văn bia để đưa về Pháp nghiên cứu dịch nghĩa và cam kết chuyển giao kết quả nghiên cứu cho BQL VQG Phong Nha – Kẻ Bàng nhằm mục đích phục vụ cho công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của Di sản.
Hiện nay, tại Phong Nha – Kẻ Bàng ghi nhận 33 di chỉ khảo cổ có niên đại từ 3.000 – 12.000 năm trước, một số di chỉ đặc trưng ở Phong Nha – Kẻ Bàng, gồm: Di chỉ hang Bi Ký trong động Phong Nha gồm bàn thờ Chàm, 97 ký tự cổ khắc trên vách đá, tượng đá, mảnh gốm và nhiều bài vị chứa đựng các thông tin văn hoá Chăm Pa; Di chỉ ở xã Hưng Trạch, Sơn Trạch gồm những ngôi mộ chum bằng gốm, khuyên tai, lưỡi rìu đồng chứa đựng các thông tin văn hoá Đông Sơn và Sa Huỳnh. Di tích chữ hệ chữ Brahmi có nguồn gốc Nam Ấn Độ thể hiện ngôn ngữ người Chăm (hệ ngôn ngữ Nam Đảo), gạch, tượng đá, tượng phật, mảnh gốm và nhiều bài vị ở động Phong Nha, các di chỉ như rìu đá thuộc Thời kỳ Đồ đá mới cũng được phát hiện tại đây.
Ngoài giá trị sinh thái tự nhiên, Phong Nha – Kẻ Bàng còn có giá trị văn hóa, chứa đựng nhiều di tích lịch sử qua các thời kỳ, đặc biệt là quần thể hỗn hợp di tích phản ánh tiến trình lịch sử hai dòng văn hóa Chăm – Việt; quần thể văn hóa tộc người bản địa và quần thể di tích lịch sử nổi bật trên đường Hồ Chí Minh huyền thoại. Với những giá trị nổi trội về địa chất, địa mạo, đa dạng sinh học và văn hóa lịch sử đã tạo nên một Phong Nha – Kẻ Bàng duy nhất và khác biệt so với các Di sản thế giới khác./.
Mai Thùy