Du lịch: 0948346555 - Quản lý bảo vệ rừng: 0919052111 - Cứu hộ động vật: 0915659417

Phong Nha – Kẻ Bàng, Quảng Bình: Bằng chứng các di chỉ văn hóa từ sơ sử

Nằm trong dòng lịch sử đất Việt, Quảng Bình, Phong Nha – Kẻ Bàng là nơi ghi nhận các bằng chứng từ sơ sử qua 33 di chỉ khảo cổ. Về nhân chủng học ở đây từng là nơi sinh sống của người cổ thuộc giống Indonesien, Negrito và Mongoloid cổ. Các địa danh được ghi có tồn tại Văn hóa Hòa Bình, gồm: Bàu Tró và nhiều nơi khác như hang Kim Bảng (Yên Hoá, Minh Hoá), hang Xóm Thón (Thượng Hoá, Minh Hoá), hang Trăn (Tân Hoá, Minh Hoá), Hang Xóm Thâm (lớp dưới) ( Trung Hoá, Minh Hoá), Mái đá Đức Thi (Tân Ninh, Quảng Ninh), Hang Khe Toong (huyện Quảng Ninh). Ngoài ra, có một số dấu tích tìm thấy ở Hưng Trạch, Sơn Trạch, Thượng Hoá, Trung Hoá, Tân Hoá và các vùng ở Quảng Lưu, Thanh Khê thuộc về nền văn hoá Đông Sơn và Sa Huỳnh. Những giá trị văn hóa qua các di chỉ và đặc trưng về tự nhiên mang tính ngoại hạng toàn cầu tạo cho Quảng Bình, Phong Nha – Kẻ Bàng một vùng sinh thái nhân văn mà khó có nơi nào có được. Và những giá trị tự nhiên hòa quyện cùng gía trị văn hóa là nguồn tài sản hiếm, quý của nhân loại.

Việt Nam là nơi phát sinh các nền văn hóa được khám phá và ghi nhận trên tri thức khảo cổ quốc tế. Ở miền Bắc thời đại hậu đồ đá có Văn hóa Tràng An, Văn hóa Sơn Vi; thời kỳ đồ đá mới có Văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn; thời đaị đồ đá-đồng có Văn hóa Phùng Nguyên; thời đại đồ đồng có Văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun; thời đại đồ sắt có Văn hóa Đông Sơn. Ở miền Nam có 02 nền văn hóa tiêu biểu cho thời đại đồ sắt, Sa Huỳnh và Óc eo. Nằm trong dòng lịch sử của nhân loại, Quảng Bình là địa danh ghi nhận nhiều sự kiện qua các giai đoạn văn hóa, Hoà bình, Đông Sơn, Sa huỳnh. Để chứng minh sự tồn tại cổ xưa của người Việt, các nhà khảo cổ đã phát hiện 33 di chi khỏa cổ có niên đại từ 3000 – 12.000 năm gắn với thời kỳ thạch khí và sơ tiền kim khí. Tiêu biểu là các nghiên cứu của H. Mansuy, J. Fromaget và M. Colani, E. Batte trong khoảng từ 1922 đến 1936 và sau đó là các công trình của các nhà khảo cổ trong nước từ thập niên 1950 đến nay. Theo kết quả nghiên cứu, vùng đất Quảng Bình có một bề dày văn hoá lâu đời với các di chỉ  từ sơ sử, tiền sử. Đặc biệt là vùng Phong Nha – Kẻ Bàng như di chỉ ở Trung Hóa, Thượng Hóa, Tân Hóa huyện Minh hoá ghi nhận nhiều công cụ chứa đựng các thông tin Văn hóa Hòa bình, di chỉ ở xã Hưng Trạch, Sơn Trạch huyện Bố Trạch có chứa đựng các di chỉ Văn hóa Đông Sơn và Sa Huỳnh.

Hình 1. Các di chỉ khảo cổ trên đất Quảng Bình. Nguồn: Võ Văn Trí và Trần Xuân Mùi

Về nhân chủng học các nhà khoa học M. Colani và E. Patte đã chứng minh  có giống người Indonesien, Negrito, và Mongoloid, vào giai đoạn Tân thạch và Trung thạch (Colani M, 1936). Năm 1922 E. Patte đã tiến hành khai quật ở điểm có toạ độ 17o48’45″B và 106o11’15″Đ thuộc Minh Cầm, xã Phong Hoá, huyện Tuyên Hoá ghi nhận mộ táng của một trẻ em khoảng 9 tuổi thuộc nhóm Negrito và một hàm d­ưới ngư­ời thuộc chủng Mongoloid cùng với một số công cụ được tìm thấy trong hang như rìu và bôn đá có vai, rìu tứ giác mài toàn thân, phác vật rìu và công cụ đẽo bằng đá, mũi nhọn x­ương, đồ trang sức và đồ gốm. Qua phát hiện cho thấy, di chỉ Minh Cầm có thể vừa là điểm mộ táng vừa là nơi c­ư trú của cư­ dân thuộc Tân thạch (Vũ Thế Long). Ở Minh Cầm E. Batte đã ghi nhận các công cụ bằng đá, hoa tai bằng vỏ sò một đầu được dùi lỗ để xuyên dây đeo tai. Đồ gốm cũng là một hiện vật thu được nhiều trong các di chỉ. Những đồ gốm thô, độ nung không cao nhưng đã được trang trí khá nhiều hoa văn đẹp. Bên cạnh hoa văn thừng còn có hoa văn khắc vạch, miết láng, chấm dải, trổ lỗ với nhiều đồ án đẹp mắt (Trịnh Dương).  Từ những năm 1923 – 1925, E. Patte đã nghiên cứu các di chỉ ở Bàu Tró – Đồng Hới Quảng Bình và ghi nhân các dụng cụ đồ đá thời Tân thạch. Herry Mansuy suy luận rằng với điều kiện tự nhiên có thể khu vực này là nơi đã từng cư ngụ của giống Hominien thời kỳ Plio-pleistocene. Theo G. Montadon thì nhân loại bắt đầu với giống người xưa nhất,  là người sơ thuỷ – Anthropien, và người sơ khai-Hominien.  Năm 1930, ở Tuyên Hoá, Madeleine Colani phát hiện ra di chỉ hang Yên Lạc, toạ độ 17047’2″B và 106039’43″Đ, nằm trên bờ sông Nan một chi lưu thư­ợng nguồn sông Gianh, xã Yên Hoá, huyện Tuyên Hoá. Trong tầng văn hoá cấu tạo bằng vỏ trai, ốc nước ngọt có lẫn nhiều xương thú, có 301 công cụ đá thuộc văn hoá Hoà Bình và cả một số hiện vật thuộc giai đoạn muộn hơn như­ gốm hoa văn thừng, mảnh vòng đá mài, xương hàm và răng của người xưa. Điều đó chứng tỏ người xưa chôn cất người chết ở ngay trong hang nơi họ sinh hoạt, ăn uống hàng ngày. Và qua  nghiên cứu cho thấy, chủ nhân của văn hoá Hoà Bình trên đất Quảng Bình thời tiền sử sống trong các hang đá, mái đá cao ráo, nhiều ánh sáng và gần nguồn nước, thức ăn chủ yếu của họ là ốc. (Vũ Thế Long). Ngoài ra các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những di chỉ Văn minh Hòa Bình như Cồn Nền nằm ở bờ Bắc sông Gianh, di chỉ Lệ Kỳ nằm sát một dòng sông cổ bị vùi lấp, Hang Kim Bảng (Yên Hoá, Minh Hoá), Hang Xóm Thón (Th­ương Hoá, Minh Hoá), Hang Trăn (Tân Hoá, Minh Hoá), Hang Xóm Thâm (lớp dưới) (Trung Hoá, Minh Hoá), Mái đá Đức Thi (lớp dưới) (Tân Ninh, Quảng Ninh), Hang Khe Toong (lớp dưới) (huyện Quảng Ninh).

Hình 2. Người Rục trước cửa hang động vào thập niên 1950. Nguồn: Bảo tàng Quai Branly, Pháp.

Có thể nói các phát hiện từ 1936 đến 1999 đã chứng minh Quảng Bình là nơi trú ngụ của cư dân thuộc nền Văn hóa Đông Sơn trong phạm vi rộng ở trên các vùng sinh thái khác nhau. Từ năm 1936 M. Colani phát hiện đồ đồng ở Cổ Giang, Hưng Trạch đến năm 1978, ở Thanh Khê, xã Thanh Trạch, Viện khảo cổ ghi nhận  một thố đồng Đông Sơn có kích thước cao 19cm đường kính miệng 26,5cm. Miệng và thân có hoa văn trang trí 3 vành hoa văn đường tròn tiếp tuyến, chấm nổi (Trịnh Sinh). Tại Khương Hà, Hưng Trạch, năm 1978, Viện Khảo cổ học tìm thấy 1 lưỡi rìu đồng và dao găm đốc củ hành đã gẫy. Tại xã Sơn Trạch, vào năm 1996, người dân thôn 3, Phong Nha phát hiện 1 rìu đồng trong lèn đá Hà Lời, hình chữ nhật có họng tra cán, lưỡi rộng 6,5cm, dài 11,5cm, có hai gờ nổi trên một mặt (Trịnh Sinh). Hà Lời cách Khương Hà khoảng 10km dọc theo sông Son lên thượng lưu nơi M. Colani phát hiện ra di chỉ đồ đồng. Hai địa điểm đều ven bờ sông Son, một nhánh của sông Gianh. Tiêu biểu cho nền Văn hóa Đông Sơn là các phát hiện Trung Thuần năm 1971, ở Đá Bàn năm 1985, ở Phù Lưu năm 1977, 1978 và 1994, 1999, thuộc xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch, gồm: 02 trống đồng, 02 rìu đồng có cán, 6 rùi đồng xéo, 01 mũi lao đồng, 01 dao găm đồng, một chùm lưỡi câu tại núi (Trịnh Sinh). Cũng thuộc về Văn hóa Đông Sơn, có phát hiện quan trọng như  01 rìu đồng có hình lưỡi xéo, chiều dài 10cm, rộng 13cm, năm 1994, thôn Lệ Bình, xã Mai Thủy, huyện Lệ Thủy; 01 rìu đồng lưỡi xéo và vòng đá, chuỗi hạt, 1995 và 01 rìu đồng lưỡi xéo,  năm 1997 tại Tiến Hóa, Minh Hóa, 01 rìu đồng  năm 1992,  ở cống Khe Dê, huyện Quảng Ninh (Trịnh Sinh). Bên cạnh đó, cũng tại Trung Hóa, người dân còn tìm được khuôn đúc rìu lưỡi xéo tại xóm Hợp Hóa, trong một hang đá; khuôn làm bằng đá cát màu nâu và có cả 2 mang, cao 12cm, rộng 10cm (Trịnh Sinh). Việc tìm được khuôn đúc lưỡi rìu xéo, hiện vật đặc sắc của Văn hóa Đông Sơn cho thấy đây là một địa điểm đã từng chế tác rìu lưỡi xéo bằng đồng của Văn hóa Đông Sơn là nền văn hóa cách đây trên 3000 năm kế thừa nền Văn hóa Phùng Nguyên (Trịnh Sinh).

Không những chứa đựng các di chỉ Văn hóa Hòa Bình, Đông Sơn mà còn có nhiều bằng chứng Văn hóa Sa Huỳnh ghi nhận trên mảnh đất này. Năm 1935, M. Colani đã có phát hiện quan trọng về địa điểm Khương Hà và Cổ Giang thuộc xã Hưng Trạch, huyện Bố Trạch. M. Colani đã tìm được những ngôi mộ chum bằng gốm ở Cổ Giang mang phong cách của đồ gốm văn hóa Sa Huỳnh, hai khuyên tai bằng thủy tinh màu xanh có 3 mấu. Năm 1936, M. Colani cũng có phát hiện quan trọng tại Bàu Khê, địa phận làng Thanh Khê, xã Thanh Trạch gồm 02 rùi đồng và 66 hạt chuỗi bằng thủy tinh hình cầu, đen, xanh, tím thuộc Văn  hóa Sa Huỳnh (Trịnh Sinh). Tháng 5/1935 trong khi đắp đường, người dân đã phát hiện được nhiều hiện vật đồng và những ngôi mộ làm bằng gốm giống như­ mộ chum thuộc Văn hoá Sa Huỳnh cùng nhiều di vật khác có giá trị ở Khương Hà và Cổ Giang (Vũ Thế Long). Đó là căn cứ chắc chắn nhất chứng tỏ vùng này có sự lan tỏa của nền Văn hóa Sa Huỳnh từ miền Trung Việt Nam cách đây hơn 2.000 năm (Trịnh Dương)

 

Ngoài những phát hiện trên, các nhà khảo cổ còn tìm thấy những dấu vết Chăm ở động Phong Nha trên những bức tượng đá và bàn thờ xây bằng gạch đỏ Chăm vào thế kỷ IX-X. Cho thấy hang động này là nơi lưu giữ những dấu tích của người Chăm cổ. Đặc biệt, hiện nay ở Phong Nha vẫn còn 97 ký tự cổ khắc trên đá tại hang Bi Ký. Viện Khảo cổ học Việt Nam năm 1995 cho rằng: Động Phong Nha là một di tích khảo cổ học quan trọng; Những dấu tích ở hang Bi Ký trong động có thể là một nơi thờ tự của người Chăm Pa từ thế kỷ IX đến thế kỷ XI. Nơi đây, cũng đã phát hiện nhiều mảnh vỡ các bình gốm tráng men Chàm cùng các mảnh gốm thô sơ có lõi đen.

 

Các di chỉ khảo cổ của E. Batte Bàu Tró, hang Minh Cầm và vùng Minh Hóa, cùng niên đại với các di chỉ tìm thấy ở Hòa bình điều này chứng tỏ ở đây tồn tại nền văn minh thạch khí giai đoạn chuyển tiếp giữa cựu thạch và tân thạch, khoảng 10.000 – 12.000 năm (Nguyễn Phương, 1965). Những phát hiện về các Di chỉ ở Bố Trạch, Quảng Trạch, Lệ Thủy, Minh Hóa ghi nhận tồn tại nền Văn hóa Đông Sơn và Sa Huỳnh niên đại trên 2000 năm. Ngoài ra, ở giai đoạn hiện đại, người Chăm đã trú ngụ ở hang đá Phong Nha qua bằng chứng ký tự, đồ nung trong hang Bi ký. Những giá trị trên minh chứng Quảng Bình và đặc biệt là khu vực Phong Nha – Kẻ Bàng có sự hiện diện các nền văn hóa tiền sử và sơ sử trên phạm vi rộng và qua các vùng sinh thái, ven biển, trung du và miền núi. Tuy nhiên, để chứng minh cho mối quan hệ của các nền văn minh cổ xưa với hiện tại cần phải có các công trình nghiên cứu chuyên sâu về nhân chủng học, khảo cổ mà khu vực Phong Nha Kẻ Bàng là nơi quần cư đặc biệt, đặc trưng của các tộc người thiểu số như Arem, Măng Coong, Mày, Sách, Rục, Mã Liềng được xem là nhóm người có những đặc điểm cổ xưa.

 

 PNKB

 

Translate by Google »